Giám sát việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước gắn liền với hoạt động của bản thân mỗi cơ quan, người có thẩm quyền của cơ quan và bị chi phối, tác động bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan khác nhau. Để bảo đảm cho việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước đúng đắn, đạt được hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, cần thiết phải thiết lập cơ chế theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện những công việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan, người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước theo phạm vi đã được phân công, phân định.
Link bài viết: Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra > TinTucA > ChiTietTin (issi.gov.vn)
Giám sát việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau - giám sát trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước; giám sát bên ngoài cơ quan hành chính nhà nước (Giám sát của Đảng, giám sát của các cơ quan nhà nước, giám sát của xã hội). Mỗi kênh giám sát đều có những vai trò, vị trí nhất định và bổ sung cho nhau để bảo đảm việc thực thi công vụ đúng pháp luật, có hiệu lực, hiệu quả. Trong giám sát nội bộ việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước, ngoài hoạt động kiểm tra có tính chất “tự thân” của thủ trưởng cơ quan hành chính đối với nhân viên thuộc quyền quản lý; của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới phục vụ công tác quản lý điều hành thì cơ quan thanh tra còn được pháp luật quy định có vai trò giám sát nội bộ quan trọng - thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật 1.
1. Các cơ quan hành chính nói chung và cơ quan thanh tra nhà nước nói riêng được pháp luật trao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để thực hiện được chức năng giám sát. Theo quy định chung, kiểm tra được xác định là một chức năng của hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền nhằm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của đối tượng kiểm tra, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, những thiếu sót trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, qua đó áp dụng những biện pháp xử lý, khắc phục những thiếu sót nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Đây là hoạt động tự thân của chính cơ quan hành chính nhà nước. Trong hầu hết các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức nói chung hay cơ quan hành chính nhà nước nói riêng đều có những điều khoản nhận định chức năng quan trọng này được thực hiện bởi người đứng đầu cơ quan với cấp dưới thuộc quyền quản lý nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá để kịp thời phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm, góp phần thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức tự ý thức đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Cùng với kiểm tra, thanh tra được pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể là “xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc” (Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010). Theo đó, cơ quan thanh tra giúp các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật nhận thức đúng chủ trương, chính sách, giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức chưa đúng hoặc làm chưa đúng thì sửa chữa, khắc phục để từ đó đảm bảo việc thực thi chính sách được thông suốt, đồng bộ, thống nhất từ trên xuống; đảm bảo quyền, lợi ích của công dân; đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước.
Nội dung thanh tra, kiểm tra hoạt động thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước khá rộng và phạm vi bài viết này tiếp cận chủ yếu trên 02 mảng cơ bản sau: (i) giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cán bộ, công chức; (ii) giám sát việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức. Cụ thể là:
Thứ nhất, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cán bộ, công chức.
Một là, thông qua hoạt động kiểm tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đối với cấp dưới. Đây là hoạt động thường xuyên của các chủ thể quản lý để xem xét, đánh giá tình hình thực tế việc thực hiện chủ trương, chính sách đã ban hành và việc chấp hành kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, pháp chế của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao. Chức năng kiểm tra thường được ghi nhận ngay trong văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý. Ngoài ra, một số cơ quan quản lý nhà nước dựa trên chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ ban hành các quy định riêng về kiểm tra nội bộ việc chấp hành pháp luật trong hoạt động công vụ. Về cơ bản, mục đích của kiểm tra nội bộ là bảo đảm việc tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động công vụ; phát hiện và biểu dương kịp thời những nhân tố tích cực, chấn chỉnh ngay các sai sót, hạn chế và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; là cơ sở để đánh giá công chức, bình xét các danh hiệu thi đua, khen thưởng; Thông qua kiểm tra nội bộ phát hiện những hạn chế, bất cập, từ đó kiến nghị các biện pháp cần thiết để sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật về tổ chức và hoạt động công vụ; có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ công chức.
Hai là, thông qua hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra. Cơ quan thanh tra không chỉ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức đúng pháp luật, sửa chữa những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà còn thông qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, cơ quan thanh tra giám sát việc cung cấp thông tin phản hồi liên quan đến việc thực hiện chính sách pháp luật và kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn. Đây là vai trò giám sát quan trọng của cơ quan thanh tra nhà nước góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, giám sát việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức
Một là, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động này. Văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành ra luôn nhằm để thực hiện một hoặc những mục tiêu nhất định, nhất là trong lĩnh vực hành chính, có sự tác động rất lớn đối với kinh tế, văn hóa, xã hội. Nếu không được xem xét, đánh giá kỹ lưỡng về tiêu chí đúng căn cứ pháp lý; đúng thẩm quyền; nội dung phù hợp với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên; đúng trình tự, thủ tục, thể thức và kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật… có thể dẫn đến những sai lầm trong quản lý mà còn trực tiếp tác động đến nền kinh tế và đời sống của người dân.
Trách nhiệm tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 111 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tự kiểm tra văn bản do mình ban hành hoặc liên tịch ban hành ngay sau khi văn bản được ban hành hoặc nhận được yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân; người đứng đầu tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là đầu mối giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện việc tự kiểm tra thông tư, thông tư liên tịch do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cáo ban hành; Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp là đầu mối giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc tự kiểm tra thông tư, thông tư liên tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; Người đứng đầu tổ chức pháp chế cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với tổ chức pháp chế thuộc bộ mà Bộ trưởng bộ đó đã ban hành văn bản thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc tự kiểm tra văn bản; Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng Phòng Tư pháp, người đứng đầu cơ quan được Uỷ ban nhân dân ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt giao là đầu mối giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản; Công chức tư pháp - hộ tịch giúp UBND cấp xã thực hiện việc tự kiểm tra văn bản.
Hai là, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức.
Trong thực thi công vụ, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật của cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước là nhiệm vụ rất quan trọng. Theo Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ quy định về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, trong quá trình theo dõi thi hành pháp luật, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp phải xem xét, đánh giá về: Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật; tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật; tình hình tuân thủ pháp luật. Khi xem xét, đánh giá tình hình văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP đã đặt ra yêu cầu về nội dung đánh giá bao gồm: tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết; tính thống nhất, đồng bộ; tính khả thi của văn bản với mục tiêu văn bản được bảo đảm hiệu lực thi hành với những chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống; ngược lại, nếu không thống nhất, đồng bộ, không phù hợp thì kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, cơ chế xem xét, đánh giá hành vi của các chủ thể tổ chức thực thi pháp luật ngoài được thực hiện thông qua cơ chế giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân với các hình thức như: xem xét báo cáo hoạt động, chất vấn và yêu cầu trả lời chất vấn, xem xét đình chỉ, bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh... thì thanh tra cũng là một phương thức quan trọng để xem xét, đánh giá, xử lý theo thẩm quyền việc thực hiện chính sách, pháp luật.
2. Thực tiễn giám sát việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã đạt được những kết quả nhất định.
Thứ nhất, các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương thời gian qua đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra công vụ theo chương trình, kế hoạch, đột xuất, theo chỉ đạo của cấp trên hoặc theo thông tin phản ánh, khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức. Kết quả kiểm tra cho thấy tính tích cực của hoạt động này trong việc đánh giá những ưu điểm, mặt tích cực; phát hiện những tồn tại, thiếu sót, khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công vụ; đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền biện pháp xử lý; góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong việc thực thi nhiệm vụ công vụ và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; tiếp tục nâng cao trách nhiệm, tinh thần, thái độ, chất lượng phục vụ Nhân dân của các cơ quan, đơn vị nhà nước.
Thứ hai, hoạt động thanh tra đã ngày càng bám sát yêu cầu công tác quản lý, có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc, dư luận quan tâm; qua đó phát hiện nhiều kẽ hở hoặc những bất cập trong các quy định pháp luật, những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, chỉ ra những vi phạm có tính phổ biến để tập trung chấn chỉnh, khắc phục.
Thứ ba, việc giám sát, tự kiểm tra ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước đã được tăng cường, chủ động nhằm phát hiện những sai sót trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật của chính các cơ quan hành chính nhà nước xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước. Thời gian qua, qua công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương đã phát hiện 1.236 văn bản quy phạm pháp pháp luật trái pháp luật về thẩm quyền ban hành và nội dung; 3.829 văn bản quy phạm pháp pháp luật sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản; 574 văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật. Trong đó, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương đã xử lý được 3.814 văn bản quy phạm pháp pháp luật (bao gồm văn bản quy phạm pháp pháp luật trái pháp luật về thẩm quyền ban hành, nội dung và văn bản quy phạm pháp pháp luật sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày). Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương đã tự kiểm tra được 77.255 văn bản do mình ban hành (trong đó có 22.587 văn bản quy phạm pháp pháp luật); phát hiện 377 văn bản quy phạm pháp pháp luật trái pháp luật về thẩm quyền ban hành, nội dung; 1.179 văn bản quy phạm pháp pháp luật sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản; 494 văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật. Qua đó, 1.114 văn bản quy phạm pháp pháp luật (gồm văn bản quy phạm pháp pháp luật trái pháp luật về thẩm quyền ban hành, nội dung và văn bản quy phạm pháp pháp luật sai sót khác) đã được cơ quan ban hành văn bản xử lý2 .
Bên cạnh những kết quả đạt được, giám sát việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế.
Thứ nhất, hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ, công chức chưa đảm bảo tính kịp thời, thường xuyên trong giám sát hoạt động thực thi công vụ. Tỉ lệ các cuộc thanh tra hành chính so với các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành hàng năm còn hạn chế. Phần lớn các cuộc thanh tra mang tính chất hậu kiểm nên những sai phạm, hạn chế trong hoạt động thực thi công vụ chưa được phát hiện, xử lý kịp thời. Một số trường hợp sai phạm bị phát hiện khi đối tượng vi phạm đã không còn giữ chức vụ, đã về hưu hoặc chuyển công tác cũng khác ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý.
Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra hành chính chủ yếu được thực hiện theo chương trình, kế hoạch là chủ yếu, khó đảm bảo tính thường xuyên, liên tục và vì tính chất hoạt động là “hậu kiểm” nên sự bám sát, theo sát hoạt động thực thi công vụ cũng rất khó để đảm bảo. Phương thức, trình tự thực hiện thanh tra hành chính đó được duy trì ổn định, lâu dài nên thiếu tính linh hoạt; trong khi hoạt động thực thi quyền lực công diễn ra hàng ngày, hàng giờ; nếu có những sai sót, vi phạm hay hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực thì khó có thể đảm bảo tính kịp thời trong phát hiện và xử lý thông qua hoạt động thanh tra theo Đoàn và theo chương trình, kế hoạch như hiện nay.
Thứ hai, phạm vi, nội dung, phương thức xem xét, đánh giá việc thực thi chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước chưa mang tính bao quát, còn chồng chéo, bỏ sót, nặng tính hình thức.
(i) Công tác nắm tình hình, đề xuất kế hoạch thanh tra việc thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước chưa kịp thời, bị động nên còn hiện tượng chồng chéo, bỏ sót. Qua các Báo cáo công tác của các bộ, ngành, địa phương và Báo cáo công tác ngành Thanh tra trong những năm gần đây cho thấy, mặc dù các cơ quan thanh tra đã chủ động trong việc nắm tình hình, xây dựng kế hoạch thanh tra trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt, tuy nhiên vẫn có hiện tượng trùng lặp hoặc bỏ sót đối tượng thanh tra. Vẫn có những cơ quan, tổ chức là đối tượng của nhiều đoàn thanh tra trong cùng năm hoặc thậm chí là tháng. Điều này dẫn đến sự xáo trộn trong hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra. Mặt khác thể hiện việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra chưa khoa học, dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp, gây nên sự lãng phí nguồn lực thanh tra.
(ii) Việc xác định mục tiêu, nội dung, đối tượng thanh tra chưa sát với nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ, ngành, địa phương. Điều này cũng đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra trong việc hỗ trợ, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước. Khi xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra chưa tính đến việc dự trữ nguồn lực để thực hiện các công việc đột xuất dẫn đến tình trạng có một số việc đã đưa vào chương trình, kế hoạch mà không thực hiện được. Có năm, công tác thanh tra kinh tế xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện chủ yếu dựa trên sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nhiều cuộc thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật đã đưa vào chương trình kế hoạch nhưng không thực hiện được. Điều này thể hiện sự bị động do việc xây dựng chương trình, kế hoạch chưa sát, phù hợp với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
(iii) Nội dung, phạm vi thanh tra thường được gửi trước cho đối tượng thanh tra, nên hoạt động của Đoàn thanh tra trên thực tế còn mang nặng tính hình thức, đặc biệt là thanh tra trách nhiệm chủ yếu dựa trên báo cáo của đối tượng thanh tra mà thiếu hoạt động khảo sát, đánh giá thực tiễn triển khai và hiệu quả thực hiện trên thực tế. Do vậy, những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn triển khai chưa được thể hiện, phản ảnh đúng trong kết quả thanh tra.
(iv) Kiến nghị về hoàn thiện chính sách pháp luật, hoàn thiện cơ chế thực thi công vụ của cơ quan hành chính nhà nước trong Kết luận thanh tra chưa rõ nét. Thực tế trong những năm qua, Kết luận thanh tra nói chung thậm chí là trong cả Báo cáo tổng kết công tác thường kỳ của cơ quan thanh tra cũng thường chú ý đến những nội dung như phát hiện vi phạm về kinh tế, kiến nghị thu hồi về ngân sách, xử lý hành vi vi phạm…. kèm theo đó là những số liệu rất cụ thể. Trong khi đó, nội dung chấn chỉnh hoạt động quản lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật thường chỉ được nêu chung chung, chưa chỉ rõ nội dung chấn chỉnh là gì, nội dung kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật là Luật nào? Điều, khoản hoặc ít nhất là nội dung quy định pháp luật gì?... Nói cách khác, ở khía cạnh này, việc thực hiện quyền hạn giám sát của cơ quan thanh tra chưa được toàn diện và bao quát, chưa chú trọng đến hoàn thiện cơ sở pháp lý, yếu tố nền tảng của hoạt động thực thi công vụ.
Thứ ba, việc giám sát, kiểm tra ban hành văn bản pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước chưa thực sự sâu sát trong rà soát, đánh giá nội dung phát hiện quy định chưa phù hợp, trái, mâu thuẫn, chồng chéo với các căn cứ pháp lý để xử lý hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo đúng quy định.
(i) hoạt động giám sát, tự kiểm tra việc ban hành văn bản pháp luật là nhiệm vụ tương đối khó khăn, phức tạp đối với cơ quan hành chính nhà nước. Việc pháp luật cho phép nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và với số lượng văn bản bản quy phạm pháp luật lớn như hiện nay thì để phát hiện ra những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp, bảo đảm sự thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ không dễ dàng. Thực tế đang tồn tại không ít văn bản có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn cũng như không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều văn bản được ban hành đã lâu, nội dung đã được điều chỉnh tại văn bản khác, song chưa được xử lý về mặt hiệu lực, thậm chí nhiều văn bản không xác định được tình trạng hiệu lực cũng như các thông tin khác liên quan đến văn bản.
(ii) Nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương còn lúng túng về cách thức triển khai, kỹ năng nghiệp vụ về tự kiểm tra, chỉ mới thực hiện giám sát hiệu lực của văn bản mà chưa thực hiện giám sát phần nội dung để phát hiện các quy định chưa phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo. Chính sách, pháp luật do các Bộ, ngành, địa phương ban hành có xu hướng tăng; nhiều vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, làm cho việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật của các Bộ, ngành, địa phương để quản lý ngành, lĩnh vực, quản lý địa phương gặp khó khăn (nhất là về tài chính,ngân hàng, đất đai, tài nguyên, môi trường...), trong khi năng lực của đội ngũ công chức soạn thảo văn bản còn hạn chế, dẫn đến văn bản trái pháp luật có xu hướng tăng, nội dung sai phạm phức tạp. Giám sát việc thực thi công vụ nếu không chặt chẽ bắt nguồn từ giai đoạn này thì mục đích giám sát sẽ không triệt để và giải quyết được từ gốc rễ vấn đề.
3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra giúp Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cán bộ, công chức; giám sát việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức; từ đó, xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền vi phạm trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Có thể thấy rằng, giám sát nội bộ trong các cơ quan hành chính thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đóng vai trò cốt yếu. Do đó, các giải pháp phải mang tính trọng tâm.
Thứ nhất, việc thực hiện thanh tra, kiểm tra phải được xác định có trọng tâm, trọng điểm, thực sự gắn kết logic, song song với các giải pháp của Chính phủ về chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị định quy định các lĩnh vực ưu tiên như: bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trách nhiệm giải trình thực thi nhiệm vụ, công vụ...
Thứ hai, trong giai đoạn trước mắt, Luật Thanh tra đang được sửa đổi chưa thông qua, cần tập trung vào việc thực hiện hiệu quả các chức năng của các cơ quan thanh tra theo Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng,… theo hướng đẩy mạnh thực hiện thanh tra trách nhiệm và giám sát hoạt động thanh tra, thẩm định, kết luận thanh tra, công khai kết quả, quyết định xử lý về thanh tra.
Thứ ba, tập trung thực hiện chức năng thanh tra hành chính với những nội dung cụ thể để thực hiện giám sát hành chính, có thay đổi phương thức là theo dõi thường xuyên hơn, tạo cơ sở để đưa vào kế hoạch thanh tra hay thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện các vi phạm cụ thể. Chức năng thanh tra sẽ được hiểu bao hàm không chỉ thanh tra bằng các cuộc thanh tra cụ thể mang tính chất “hậu kiểm” mà còn bao gồm cả việc giám sát trước thanh tra, “tiền kiểm” tạo cơ sở cho việc thanh tra.
Thứ tư, các hoạt động thanh tra, kiểm tra cần hướng đến đạt được mục đích phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Thứ năm, thực hiện hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kiểm tra, giám sát văn bản để cập nhật và thực hiện kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm; gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát văn bản với công tác soạn thảo, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật. Từ đó, hình thành cơ chế đồng bộ trong việc theo dõi, phát hiện, xử lý văn bản trái pháp luật góp phần giám sát hiệu quả việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức./.
TS. Tạ Thu Thủy
Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
1. Điều 5 Luật Thanh tra năm 2010.
2. Báo cáo số 100/BC-BTP ngày 24/4/2018 của Bộ Tư pháp về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2018
Liên kết website
Các Trang khác
Thống kê truy cập
Lượt xem: 7567260