Một số vấn đề về xây dựng Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Trong vòng hơn 30 năm qua, Đảng đã ban hành hàng loạt Nghị quyết, chỉ thị trong đó đưa ra những chủ trương, định hướng chính sách phòng, chống tham nhũng, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí (sau đây gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 3 Khóa X).
Trên cơ sở các chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp lý quan trọng nhằm đấu tranh chống tham nhũng. Trong đó, Chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ) là văn bản quan trọng, xác định toàn diện các quan điểm, mục tiêu, các nhóm giải pháp, cũng như định rõ lộ trình để thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng. Thực tiễn qua 10 năm thực hiện Chiến lược cho thấy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, đề xuất ban hành Chiến lược mới cho giai đoạn tiếp theo từ năm 2021 đến năm 2030.
1. Vai trò, ý nghĩa, đặc điểm của Chiến lược
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng là quyết định của nhà nước/chính phủ với mục tiêu, giải pháp cụ thể nhằm phát hiện, loại trừ, xử lý các nguyên nhân, điều kiện của tham nhũng và hành vi tham nhũng trong những giai đoạn nhất định. Do đó, Chiến lược có vai trò rất quan trọng sau đây:
- Cung cấp một khuôn khổ để thực hiện hệ thống các giải pháp phòng, chống tham nhũng một cách hệ thống, toàn diện, đảm bảo phối hợp hài hòa mọi cách thức, biện pháp cho công tác phòng, chống tham nhũng;
- Chủ động xác định và kiểm soát tình hình tham nhũng, gia tăng hiệu quả của việc giảm thiểu các nguy cơ tham nhũng và xử lý hành vi tham nhũng, giảm tác hại kinh tế của hành vi tham nhũng, ổn định chính trị - xã hội;
- Góp phần điều phối hoạt động của các cơ quan nhà nước, phân giao quyền hạn, trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng;
- Huy động sự tham gia của người dân, xã hội vào công tác phòng, chống tham nhũng. Thúc đẩy sự tham gia chủ động của các tổ chức, đoàn thể xã hội, các phương tiện truyền thông và mọi công dân trong nỗ lực phòng, chống tham nhũng; xây dựng văn hóa và tạo ra thói quen phòng, chống tham nhũng trong đời sống của cán bộ, công chức và trong các tầng lớp nhân dân.
- Là bộ phận quan trọng trong tổng thể hệ thống giải pháp nhằm thực hiện thành công mục tiêu xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển và hiệu lực, hiệu quả.
2. Đặc điểm của Chiến lược
- Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng là quyết định chính sách để giải quyết vấn đề tham nhũng một cách có hệ thống, lộ trình xác định. Chiến lược quy định trực tiếp các mục tiêu và hệ thống giải pháp phòng, chống tham nhũng nhằm giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra trong giai đoạn 2009 - 2020.
- Được ban hành dựa trên cơ sở khách quan là tình hình tham nhũng và chịu sự chi phối bởi mong muốn chủ quan của Nhà nước. Chiến lược được ban hành trong bối cảnh tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Vì vậy, việc ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 là rất cần thiết, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
- Có đối tượng và phạm vi tác động rộng lớn, khó lượng hóa được hiệu quả, tồn tại, vận động trong môi trường chính trị, kinh tế - xã hội tương ứng. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đô thị hóa, sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động … sẽ nảy sinh những điều kiện mới cho tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Mặt khác, việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng tạo cơ hội phát sinh những vụ việc tham nhũng với phạm vi rộng hơn, khó phát hiện và xử lý hơn do có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Có lộ trình triển khai cụ thể và phân công trách nhiệm thực hiện các giải pháp một cách rõ ràng:
Giai đoạn thứ nhất tập trung vào các giải pháp nâng cao năng lực phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Đẩy mạnh xử lý những vụ việc tham nhũng nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân; tập trung rà soát những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng.
Giai đoạn thứ hai, tập trung thực hiện các giải pháp về hoàn thiện thể chế, tập trung vào những lĩnh vực còn trì trệ, mở rộng các biện pháp phòng ngừa như kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng thực thi công vụ; hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng.
Giai đoạn thứ ba, tiếp tục làm tốt các giải pháp đã được thực hiện trong các giai đoạn trước, triển khai các giải pháp còn lại, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược.
- Có cơ chế kiểm tra, đánh giá, tiêu chí đo lường việc triển khai thực hiện. Việc đánh giá, đo lường về thực trạng tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng là đặc biệt quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, qua đó góp phần xác định các nhiệm vụ trọng tâm và biện pháp phù hợp để định hướng, điều chỉnh công tác phòng, chống tham nhũng thời gian tiếp theo sát, đúng và hiệu quả hơn.
4. Nội dung, hình thức của Chiến lược
Chiến lược được kết cấu thành các nội dung chủ yếu sau đây:
- Mục tiêu phòng, chống tham nhũng (bao gồm mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể);
- Giải pháp phòng, chống tham nhũng (bao gồm: giải pháp liên quan đến phòng ngừa, phát hiện, xử lý, phát huy vai trò xã hội, hợp tác quốc tế, thiết lập bộ máy chuyên trách… để thực hiện các mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn),
- Trách nhiệm, lộ trình, các điều kiện đảm bảo khác cho việc tổ chức thực hiện các giải pháp của Chiến lược.
Chiến lược được ban hành dưới dạng quyết định chủ đạo (quyết định mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích đưa ra những chủ trương, chính sách, những giải pháp lớn về quản lý hành chính đối với cả nước, một vùng hoặc đối với một đơn vị hành chính nhất định).
Chiến lược đã đề ra mục tiêu ngăn chặn, triệt tiêu các điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, ngăn ngừa việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi. Chiến lược đã chỉ rõ: “Sử dụng tổng thể các giải pháp phòng, chống tham nhũng; vừa tích cực, chủ động trong phòng ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý với những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó phòng ngừa là cơ bản, lâu dài; gắn phòng, chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí”.
Theo đó, Chiến lược đã xác định nội dung các nhóm giải pháp cơ bản để phòng, chống tham nhũng là:
+ Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật;
+ Hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ;
+ Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch;
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng;
+ Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng, chống tham nhũng.
Đồng thời, Chiến lược cũng xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong việc tổ chức thực hiện các nhóm giải pháp và lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện, tổng kết, đánh giá việc thực hiện Chiến lược.
Theo đó, để phòng, chống tham nhũng, vừa phải tích cực chủ động phòng ngừa, vừa phải kiên quyết trong phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó, cần xây dựng lực lượng chuyên trách đủ mạnh, có phẩm chất chính trị, bản lĩnh đạo đức nghề nghiệp làm nòng cốt trong công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Cần đặt quá trình phòng, chống tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, tổ chức quốc tế; tiếp thu và chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong công tác phòng, chống tham nhũng.
5. Một số vấn đề đặt ra khi xây dựng Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng của Việt Nam cho giai đoạn tiếp theo
Cho đến nay, công tác phòng, chống tham nhũng cũng chưa đạt được mục tiêu đề ra. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng nhận định: “Tuy nhiên, tham nhũng vẫn đang diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và chưa bị đẩy lùi. Công tác phòng, chống tham nhũng nói chung chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra”. Nghị quyết số 126/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 ngày 29/11/2017 cũng đã nêu: “Qua 10 năm thực hiện…, công tác phòng, chống tham nhũng đã … tạo chuyển biến tích cực trên nhiều phương diện, với nhiều kết quả cụ thể, được dư luận quần chúng đồng tình, cộng đồng quốc tế ủng hộ… Tuy nhiên, công tác phòng, chống tham nhũng vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng. Tham nhũng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân”. Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) xếp Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng, năm 2018, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam vẫn chỉ đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu (giảm 02 điểm so với năm 2017). Khảo sát Phong vũ biểu toàn cầu Việt Nam năm 2017 cũng chỉ ra: 72% người dân được hỏi cho rằng tham nhũng trong khu vực công là vấn đề nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng (năm 2013 là 60%), và chỉ có 4% cho rằng tham nhũng không phải là một vấn đề ở Việt Nam (năm 2013 là 14%).
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, trong thời gian tới, cần tiếp tục ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng cho giai đoạn tiếp theo (2020 - 2030). Chiến lược mới cần khắc phục một số nhược điểm của Chiến lược cũ và hướng tới các giải pháp mạnh mẽ trong phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.
Thứ nhất, mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể của Chiến lược cần có sự logic chặt chẽ đảm bảo tính đồng bộ, khả thi. Các khía cạnh phòng ngừa tham nhũng và chống tham nhũng cần phải được quy định một cách đầy đủ nhằm tăng cường hiệu quả phòng, chống tham nhũng. Vấn đề phát hiện và xử lý tham nhũng cần được thể hiện rõ ràng, cụ thể ở mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể.
Thứ hai, cần có các giải pháp hiệu quả hơn trong phát hiện và xử lý tham nhũng. Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tập trung vào các giải pháp có tính phòng ngừa cao: công khai, minh bạch: kê khai tài sản, thu nhập, xây dựng các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, nâng cao nhận thức về tham nhũng, trách nhiệm của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng. Trong giai đoạn tới, nhằm đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng và để phù hợp với tình hình hiện nay, cần bổ sung thêm một số giải pháp mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như: kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng; thu hồi tài sản bất minh; phòng, chống tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài…
Thứ ba, bổ sung giải pháp về tiêu chí, chỉ số đánh giá quốc gia về tình hình tham nhũng theo hướng đa dạng hóa hình thức đánh giá thay vì chỉ tập trung vào các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo chuyên đề nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan. Có cơ chế để các tổ chức xã hội, người dân, doanh nghiệp giám sát và đưa ra những góp ý nhằm phát huy tối đa vai trò phản biện của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Tham khảo kết quả điều tra xã hội học, đánh giá chính thức và có tính khách quan và khuyến cáo của các tổ chức quốc tế đối với chính sách phòng, chống tham nhũng của Việt Nam.
Thứ tư, cần chú trọng việc xác định tổng thể hiện trạng tình hình tham nhũng và nguyên nhân gây ra để thiết kế Chiến lược đảm bảo tính khoa học, có mục tiêu phù hợp với hiện trạng vấn đề, có tính khả thi, hiệu quả, có hệ thống các giải pháp, công cụ đồng bộ, thống nhất, toàn diện, hiệu lực và tạo ra bước đột phá trong việc kiểm soát tình hình tham nhũng. Hiệu quả của Chiến lược đòi hỏi khuôn khổ pháp lý đồng bộ, khả thi không chỉ dựa trên yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà còn phải đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia trong đó có Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, các hiệp ước về kinh tế… và tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Thứ năm, việc xây dựng Chiến lược phải gắn với việc tổng kết, đánh giá thực tiễn, đánh giá tác động. Trong từng giai đoạn cụ thể, trên cơ sở các báo cáo chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đánh giá, khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, ý kiến phản biện của xã hội, Chính phủ cần giao trách nhiệm cho các cơ quan chức năng tiến hành tổng kết thực tiễn, đánh giá tác động của Chiến lược đối với mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Từ đó có những điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu mà Chiến lược đã đề ra.
(Theo ThS. Phạm Thị Thu Hiền
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra
Liên kết website
Các Trang khác
Thống kê truy cập
Lượt xem: 7567257