Phòng, chống tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội

10/11/2021    Lượt xem: 13231    In bài viết   Độ tương phản  

Hiến pháp 2013 đã xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của các thành viên, thu hút đông đảo nhân dân vào tham gia quản lý các công việc nhà nước, công việc xã hội, nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Với những đặc điểm mang tính chất đặc thù của tổ chức chính trị - xã hội, phòng chống tham nhũng trong các tổ chức này vừa phải theo quy định chung của pháp luật về phòng, chống tham nhũng vừa mang những màu sắc khác so với các cơ quan hành chính nhà nước.

1. Khác với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta là những thiết chế tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội và tính nhân dân với những đặc điểm sau đây:

 Thứ nhất, là tổ chức mang màu sắc chính trị, đại diện cho ý chí của nhiều tầng lớp trong xã hội trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần chúng của Đảng, là công cụ để tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong các tầng lớp nhân dân. Các tổ chức này có nhiệm vụ, chức năng là đưa đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn hoạt động thông qua các hình thức tập hợp quần chúng đặc thù. Trong mối quan hệ với Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tuy không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước, không thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhưng lại có vai trò chi phối, tác động rất lớn đến quá trình thực hiện quyền lực nhà nước; đặc biệt là thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.

 Thứ hai, là tổ chức tập hợp các quần chúng được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hoạt động theo nguyên tắc tự quản và có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương. Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động theo điều lệ do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua. Theo nguyên tắc tự nguyện và tự quản, tổ chức và hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội chủ yếu do điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội điều chỉnh. Điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội do các thành viên trong tổ chức xây dựng. Trong mối quan hệ của toàn bộ hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đều là thành viên của hệ thống chính trị, nhưng bản thân các đoàn thể chính trị - xã hội này cũng là thành viên của Mặt trận Tổ quốc và được tổ chức từ trung ương đến địa phương. Về mặt tổ chức, đoàn thể và Mặt trận đều độc lập với nhau về tổ chức. Mỗi tổ chức đều có hệ thống cơ cấu bộ máy riêng, thực hiện những mục đích, tôn chỉ riêng, có điều lệ riêng, có con dấu riêng nhưng đều hành động vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; khác nhau về từng lợi ích riêng của từng tổ chức nhưng thống nhất về lợi ích chung là lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc.

 Thứ ba, phương pháp hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội đặc trưng là thuyết phục, giáo dục và các biện pháp tác động xã hội khác. Các tổ chức chính trị - xã hội không thiết lập quyền lực công mà chỉ tham gia, tác động đến việc thực thi quyền lực nhà nước theo những cách thức nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho các thành viên tổ chức trong xã hội. Trong khi đó, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt và có quyền cưỡng chế nhằm duy trì trật tự xã hội. Theo đó, các tổ chức chính trị - xã hội không có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, trừ các trường hợp cụ thể được Nhà nước trao quyền.

 Thứ tư, các quyết định của các tổ chức chính trị - xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình, mà không có hiệu lực với những người ngoài tổ chức chính trị - xã hội đó. Trong khi đó, cơ quan nhà nước được ban hành văn bản pháp luật theo thẩm quyền và có giá trị pháp lý bắt buộc thi hành với người dân, tùy thuộc vào phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản pháp lý đó.

 Thứ năm, nguồn lực hoạt động vừa sử dụng nguồn lực nhà nước vừa dựa vào nguồn lực xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội vừa có cơ chế tiếp nhận ngân sách tương tự như các cơ quan hành chính (chi thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…) vừa có cơ chế tiếp nhận nguồn lực xã hội (thu nhập từ phí ủy thác, thu từ hợp tác viện trợ…). Một số tổ chức chính trị - xã hội còn có các đơn vị sự nghiệp có thu; đơn vị, doanh nghiệp trực thuộc hoạt động kinh tế.

2. Nguy cơ tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều, nhưng gắn liền với đặc điểm về tổ chức, hoạt động của chính tổ chức đó có thể thấy rằng khả năng tham nhũng xảy ra xuất phát từ một số nguy cơ chính sau:

 Thứ nhất, nguy cơ từ hệ thống tổ chức chính trị - xã hội với các tổ chức, đơn vị “con” trải khắp theo địa giới quản lý hành chính, trong đó có nhiều tổ chức chính trị - xã hội có đơn vị sự nghiệp có thu như cơ sở đào tạo, báo chí, trung tâm tư vấn, hỗ trợ hội viên... Nếu chế độ công khai, minh bạch, báo cáo, giải trình không rõ ràng giữa cơ quan chủ quản và đơn vị con này thì tham nhũng, tiêu cực đương nhiên có khả năng xảy ra.

 Thứ hai, nguy cơ từ cơ chế quản lý tài chính ngân sách phân bổ hàng năm cho các tổ chức này để “nuôi” bộ máy hoạt động; từ chức năng huy động các nguồn lực xã hội như thu từ phí hội viên; từ phí tín thác ngân hàng chính sách xã hội, từ các cuộc vận động xã hội, chương trình an sinh vì người nghèo, ủng hộ đồng bào khu vực bị thiên tai, dịch bệnh... trong khi đó, cơ chế giám sát nội bộ và cơ chế giám sát chéo từ bên ngoài về tổ chức, hoạt động nói chung và công tác quản lý, sử dụng tài chính nói riêng của các tổ chức này hiện nay chưa rõ ràng.

 Thứ ba, nguy cơ từ chính cơ hội công tác trong tổ chức được trao quyền thực hiện đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các hội viên hay thực hiện chức năng giám sát đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Một số tổ chức chính trị - xã hội có quyền tổ chức thực hiện uỷ thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Việc ủy thác cho vay thông qua tổ chức Hội, đoàn thể nhằm công khai hóa, xã hội hóa hoạt động của Ngân hàng chính sách; giúp nhân dân được tiếp cận, thụ hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ, tạo một kênh dẫn vốn hữu hiệu, tin cậy đối với nhân dân và cấp ủy Đảng, chính quyền. Thông qua việc ủy thác cho vay, các tổ chức Hội, đoàn thể có thể lồng ghép việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị khác, góp phần tiết giảm chi phí xã hội. Tuy nhiên, để được hưởng chính sách này, phải thông qua việc bình xét hộ vay vốn và các tổ chức Hội, đoàn thể có vai trò kiểm tra, giám sát đưa vốn đến đúng đối tượng thụ hưởng. Và, tiền phí ủy thác được ngân hàng chính sách xã hội chi trả hàng tháng cho Hội, đoàn thể theo số tiền lãi thực tế thu được của các tổ viên và theo chất lượng dư nợ do tổ chức Hội, đoàn thể nhận ủy thác quản lý. Nếu khâu này làm không đảm bảo công khai, minh bạch thì có thể xảy ra khả năng tiêu cực, ưu đãi không đến được đúng đối tượng; khó theo dõi phí ủy thác và người có vai trò trong khâu này được hưởng lợi lợi ích khác...

3. Dù chưa có báo cáo số liệu thống kê, đánh giá chính thức nhưng trên thực tế, đã có những vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực xảy ra trong các tổ chức chính trị - xã hội, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và vai trò của các tổ chức này. Xuất phát từ đặc điểm của các tổ chức chính trị - xã hội không thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhưng lại có vai trò chi phối, tác động rất lớn đến quá trình thực hiện quyền lực nhà nước; đặc biệt là thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước tham nhũng có thể thể hiện dưới dạng một số hành vi sau:

- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao của kế toán, thủ quỹ trong tổ chức chính trị - xã hội chiếm đoạt tiền, tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.

- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu như cố tình đưa vào danh sách đối tượng không đủ điều kiện để được hưởng chính sách ưu đãi cho vay của ngân hàng chính sách xã hội thông qua hoạt động ủy thác của các tổ chức chính trị xã hội.

- Hành vi lợi dụng vị trí công tác thực hiện sai phạm trong quản lý, sử dụng các nguồn lực đóng góp của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân (ủng hộ quỹ vì người nghèo, các hoạt động gây quỹ từ thiện ủng hộ gia đình chính sách, hỗ trợ bão lụt…) và không sử dụng đúng mục đích nguồn lực đóng góp hoặc có hành vi để ngoài sổ sách không quyết toán để vụ lợi.

- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thu chi quỹ thu từ phí đóng góp của các hội viên không công khai, minh bạch với mục đích vụ lợi.

- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng của mình để nhũng nhiễu, ngăn chặn hoặc giảm bớt kinh phí hỗ trợ cho đối tượng được thụ hưởng chính sách của Nhà nước.

- Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao đưa người nhà, người thân thích của mình không đủ điều kiện vào danh sách được hưởng các gói hỗ trợ chính sách.

-  Hành vi lợi dụng danh nghĩa tổ chức, thủ trưởng tổ chức giả mạo giấy tờ, lập chứng từ khống để chiếm đoạt tiền, tài sản chung hoặc tiền, tài sản được ủng hộ từ các cuộc vận động để vụ lợi…

4. Với những nguy cơ, rủi ro về tham nhũng đó, việc phòng, chống tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội cần quan tâm đến một số yếu tố sau:

 Thứ nhất, về nhận thức, quyết tâm chính trị phòng, chống tham nhũng trong chính các tổ chức chính trị - xã hội: Phòng, chống tham nhũng nếu không được xác định là nhiệm vụ chính trị của các tổ chức chính trị - xã hội thì việc triển khai thực hiện sẽ không đảm bảo tính thường xuyên, liên tục, kiên quyết, với quyết tâm chính trị cao và bằng nhiều giải pháp đồng bộ. Quyết tâm chính trị ở đây được hiểu là sự cam kết phòng, chống tham nhũng từ cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội,  người đứng đầu tổ chức đó lan tỏa đến cấp dưới là cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức. Tức là, từ Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam đến Đảng đoàn, Thường trực, đảng viên trong cơ quan Trung ương Hội Cựu Chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn, Đoàn thanh niên đến tổ chức hội, đoàn thể cấp xã. Nỗ lực chống tham nhũng lâu bền phải xuất phát từ sự cam kết đặc biệt của những người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội. Người đứng đầu có vị trí trực tiếp quyết định trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Khi người đứng đầu kiên quyết chống tham nhũng, chắc chắn sẽ tập hợp xung quanh mình lực lượng mạnh mẽ chống tham nhũng. Muốn vậy, người đứng đầu phải thực sự trong sáng, liêm chính. Sự trong sáng, liêm chính đó bắt đầu từ bản thân, tới tập thể những người thân xung quanh, gần nhất như: tập thể lãnh đạo, các cộng sự, cấp dưới trực tiếp, cho đến những người trong gia đình.

Quyết tâm chính trị được thể hiện bằng những chiến lược, đề án, chương trình hành động thực tiễn và kế hoạch thực thi cụ thể. Từ quyết tâm chuyển hóa thành hành động thông qua công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đoàn, thường trực Trung ương các Hội trong tổ chức, sắp xếp bộ máy hoạt động hiệu quả, minh bạch; trong chỉ đạo tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ chủ trì và cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát nội bộ; trong triển khai thực hiện các quy định về tăng cường xử lý, ngăn chặn tình trạng gây nhũng nhiễu trong giải quyết công việc… Và một khi quyết tâm chính trị được xây dựng sẽ tạo ra sức đề kháng bên trong một cách chủ động và tự giác đòi hỏi những người có trách nhiệm trong tổ chức chính trị - xã hội phải trở thành người tiên phong nhất, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

 Thứ hai, về quy định cơ chế kiểm soát nội bộ ngay trong chính các tổ chức chính trị - xã hội: Cơ chế này được định khung không chỉ trong quy định pháp luật chung mà cần phải được chuyển hóa vào quy định nội bộ của từng tổ chức chính trị - xã hội; đặc biệt là cụ thể hóa vai trò liên minh của Mặt trận tổ quốc trong giám sát, kiểm tra hoạt động theo chức năng của các đoàn thể thành viên.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã xác định tổ chức chính trị - xã hội là cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Do đó, khi tiếp cận vấn đề phòng, chống tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội vẫn phải xuất phát điểm từ các vấn đề chung liên quan đến phòng ngừa tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung được quy định tại Chương II Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Tuy nhiên, (i) hiện chưa có các quy định cụ thể riêng biệt hướng dẫn về phòng, chống tham nhũng trong nội bộ các tổ chức chính trị - xã hội; (ii) quy định phòng, chống tham nhũng nội bộ trong tổ chức chỉ mang tính lồng ghép, tản mạn, khá mờ nhạt và khó theo dõi trong các văn bản chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức chính trị - xã hội; (iii) vẫn thiếu vắng các quy định liên quan đến chế độ, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội trong phòng, chống tham nhũng; (iv) chế tài xử lý người thuộc tổ chức chính trị- xã hội hoạt động theo Điều lệ có hành vi tham nhũng (ngoài chế tài pháp lý chung)...

Theo đó, quy định về chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội phải được khẳng định rõ ràng trước hết trong các văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm xác lập cơ sở pháp lý để các tổ chức chính trị - xã hội xác định đây là trách nhiệm pháp lý buộc phải thực hiện. Trách nhiệm này xuất phát từ địa vị pháp lý của một tổ chức cấu thành trong hệ thống chính trị vừa mang màu sắc chính trị vừa mang tính xã hội, nhân dân như đã phân tích tại phần đặc điểm của tổ chức này. Chính vì đặc thù này nên tổ chức chính trị - xã hội không thể nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của thể chế nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Quy định khung trong pháp luật chung chỉ là nền tảng mang tính nguyên tắc, quan trọng là với thước đo chuẩn đó, các tổ chức chính trị - xã hội sẽ phải cụ thể hóa, định lượng hóa các quy chuẩn đó vào quy định, quy chế, điều lệ tổ chức, hoạt động của chính tổ chức mình một cách phù hợp. Các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng phải phù hợp với chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các hội viên trong từng tổ chức; phù hợp với nhiệm vụ vận động, hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế; phù hợp với đặc điểm huy động nguồn lực đóng góp từ xã hội, từ đóng phí hội viên theo quy định của điều lệ…

 Thứ ba, về tổ chức và hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của các thành viên, thu hút đông đảo nhân dân vào tham gia quản lý các công việc nhà nước, công việc xã hội, nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Tính chính trị của Mặt trận tổ quốc được xác định rõ nét là liên minh chính trị. Theo đó, về cơ cấu tổ chức, hệ thống các tổ chức chính trị mang tính rộng khắp. Mỗi tổ chức đều được tổ chức từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh; cấp huyện; cấp cơ sở. Mỗi tổ chức đều có tư cách pháp nhân độc lập. Trong mỗi tổ chức còn có hệ thống các đơn vị trực thuộc; một số còn có đơn vị sự nghiệp có thu. Trong khi đó, cơ chế quản lý bên trong các tổ chức chính trị - xã hội còn lỏng lẻo, bố trí cán bộ trong từng vụ việc chưa phù hợp có sự xung đột lợi ích; cơ chế tiếp nhận, sử dụng, giải trình tài chính, tiền quyên góp chưa minh bạch; cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động vận động, quyên góp, thu phí… chưa chặt chẽ đã tạo ra lỗ hổng quản lý khiến cơ hội, nguy cơ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức này càng dễ xảy ra. Tồn tại này được thể hiện trên một số mảng hoạt động; nhất là trong một số hoạt động đặc thù của tổ chức chính trị - xã hội như vận động từ thiện… Phần lớn vụ việc tham nhũng trong các tổ chức chính trị - xã hội thời gian qua được phát hiện, xử lý phần lớn là do các nguồn thông tin, tố cáo, phát hiện từ bên ngoài, rất ít vụ việc được phát hiện từ bên trong của tổ chức. Có thể thấy, hoạt động giám sát nội bộ nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự chuyển biến; một số tổ chức chưa thiết lập được đơn vị chuyên trách phụ trách lĩnh vực phòng, chống tham nhũng trong tổ chức mình để tiến hành kiểm tra nội bộ việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong toàn hệ thống.

Với hệ thống tổ chức tương đối phức tạp như vậy đòi hỏi phải có cơ chế quản lý chặt chẽ, “bít” lỗ hổng về thiết chế ngăn ngừa khả năng tham nhũng trong chính nội bộ tổ chức. Do đó, cần xác định những biện pháp phòng ngừa tham nhũng có trọng tâm, đặc biệt là thực hiện biện pháp công khai, minh bạch hoạt động và kiểm soát xung đột lợi ích trong các tổ chức chính trị - xã hội. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã xác định tổ chức chính trị - xã hội cũng là đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật phải được tiến hành nhằm rà soát, đánh giá những quy định, biện pháp hoạt động của tổ chức trong áp dụng các quy định về phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; từ đó cũng bảo đảm được sự tuân thủ pháp luật, tránh tình trạng tùy tiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật nói chung và tổ chức chính trị-xã hội nói riêng. Do đó, cần nghiên cứu đặt ra phương thức kiểm tra việc thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng với vai trò của cơ quan trung ương các tổ chức chính trị đối với tổ chức cấp dưới trong hệ thống. Đồng thời, nghiên cứu bổ sung quy định về trách nhiệm thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng trong Điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội vì đây là văn bản quy định có hệ thống những nguyên tắc cơ bản về mục đích, tôn chỉ, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của một tổ chức chính trị - xã hội; tiêu chuẩn hội viên; trong đó, xác định rõ quyền và nghĩa vụ tham gia phòng, chống tham nhũng của hội viên trong tổ chức.

 Thứ tư, về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các tổ chức chính trị-xã hội: Cơ chế quản lý nội bộ về công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính, tài sản, minh bạch tài sản thu nhập… nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ tổ chức chính trị - xã hội chưa chặt chẽ. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các tổ chức chính trị - xã hội mang trên mình “sứ mệnh” trước hết phải phục vụ tốt lợi ích của các thành viên của mình, phải thật sự trở thành một tổ chức tự nguyện của nhân dân. Vai trò này đặt ra yêu cầu về hình thành các quy tắc ứng xử đúng đắn - nhân tố quan trọng để cán bộ, công chức miễn dịch với tệ tham nhũng bằng cách: Đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức; khắc phục thói vô cảm, vụ lợi trong khi thực hiện công vụ... Đây là một công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài; phải tiến hành một cách toàn diện, kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Bên cạnh đó, điều chỉnh, cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức cũng là yếu tố bảo đảm cho cán bộ, công chức trong các tổ chức chính trị - xã hội yên tâm công tác. Cơ chế quản lý cán bộ, công chức hiệu quả cũng nhằm bảo đảm kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng./.

Nguồn: Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra

Dấu ấn thanh tra Bình Dương
Liên kết website
Các Sở,Ban ngành

Các Trang khác

Thống kê truy cập

Lượt xem: 7637051