Vai trò của doanh nghiệp đối với công tác phòng, chống tham nhũng
Ở Việt Nam, phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Điều này được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, chính sách, chủ trương của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng nói chung. Trong đó, cộng đồng doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò đó được thể hiện trên hai phương diện là các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng.
1. Cơ sở pháp lý về vai trò của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng
Khuôn khổ các quy định của pháp luật về vai trò của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên phải kể đến Pháp lệnh năm 1998, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và hiện nay là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Vai trò đó cũng có sự phát triển trong bối cảnh Việt Nam dần mở rộng phòng, chống tham nhũng ra khu vực tư. Trước đây, vai trò của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng chủ yếu tập trung vào vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Ngoài ra, cũng có đề cập đến vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, tuy nhiên, chỉ dừng lại ở góc độ góp ý, hoàn thiện thể chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng cũng như thông tin, phản ánh về các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý các vụ việc tham nhũng.
Vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng
Trước đây, Pháp lệnh về phòng, chống tham nhũng năm 1998, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa chỉ tập trung vào trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, được xác định như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước nói chung. Trong đó, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng đã nhấn mạnh một số khía cạnh về việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa này. Ví dụ như trong quy định về công khai, minh bạch tại Điều 18 và Điều 19 mục 1 chương 2 có quy định về công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Đây là hai điều luật quy định về công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của Nhà nước và công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước. Cụ thể, doanh nghiệp của Nhà nước có trách nhiệm công khai vốn và tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi, báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán, việc trích, lập và sử dụng quỹ của doanh nghiệp, việc tuyển dụng lao động, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước phải công khai, minh bạch; không được cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp được cổ phần hoá có trách nhiệm công khai thực trạng tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp…
Bên cạnh biện pháp công khai, minh bạch thì doanh nghiệp nhà nước cũng phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa khác. Ví dụ như các biện pháp liên quan đến xây dựng các định mức tiêu chuẩn, chế độ, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, văn hoá kinh doanh, các biện pháp liên quan đến minh bạch tài sản thu nhập. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, xác định người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp nhà nước. Để bảo đảm quy định chặt chẽ hơn, Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 về minh bạch tài sản thu nhập đã quy định bắt buộc những người trong doanh nghiệp nhà nước phải kê khai tài sản, thu nhập gồm: Thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên, thành viên ban kiểm soát, kiểm soát viên, người giữ chức danh quản lý tương đương từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp nhà nước, người là đại diện phần vốn của Nhà nước, phần vốn của doanh nghiệp nhà nước và giữ chức danh quản lý từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước . Cụ thể là, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012 đã bổ sung quy định phải công khai “Họ, tên, nhiệm vụ, lương và các khoản thu nhập khác của người trong Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kiểm soát viên, Kế toán trưởng”. Sự ra đời của Luật Phòng, chống tham nhũngnăm 2018 đã mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước và các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng cũng có phần mở rộng hơn. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước thì chỉ mở rộng đến các doanh nghiệp ngoài nhà nước, công ty đại chúng, tổ chức tín dụng. Đối với các chủ thể này, có 3 nhóm biện pháp phòng ngừa tham nhũng, bao gồm:
* Biện pháp công khai, minh bạch.
Công khai, minh bạch theo luật Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 gồm 3 nhóm nội dung: liên quan đến chế độ, quyền lợi của người trong đơn vị, liên quan đến quy tắc ứng xử và liên quan đến công tác cán bộ. Ngoài ra, còn quy định công khai, minh bạch trong các nhiệm vụ khác.
* Biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích
Kiểm soát xung đột lợi ích lần đầu tiên được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Theo đó, xung đột lợi ích được hiểu là các doanh nghiệp nhà nước, công ty đại chúng, tổ chức tín dụng phải thực hiện biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng ngày 1 tháng 7 năm 2019. Đặc biệt, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP có quy định 09 trường hợp được coi là xung đột lợi ích.
* Trách nhiệm người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị
Trước đây, nội dung này đã được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách, doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp nhà nước đương nhiên phải thực hiện quy định này. Hiện nay được kế thừa và phát triển trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, doanh nghiệp ngoài nhà nước, công ty đại chúng và tổ chức tín dụng cũng phải thực hiện. Bên cạnh đó, trách nhiệm của người đứng đầu còn được hiểu là gồm có trách nhiệm về việc triển khai, thực hiện các biện pháp phòng ngừa, xử lý tham nhũng trong đơn vị. Đồng thời, phải có trách nhiệm chuyển đổi vị trí công tác hoặc tạm đình chỉ công tác đối với người có dấu hiệu tham nhũng để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý.
Vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng cũng cần phải đề cập đến vai trò của doanh nghiệp trong việc kiến nghị, hoàn thiện, tham gia vào phản biện chính sách, hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng. Vấn đề này, trước đây được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Nghị định số 47/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Để phát huy vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu “Hoàn thiện thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch nhằm thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; từng bước xóa bỏ tệ hối lộ trong quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước và trong giao dịch thương mại”. Với mục tiêu đó, Chiến lược đã đưa ra giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch, trong đó bên cạnh những nội dung liên quan đến hoàn thiện và tăng cường thực thi pháp luật còn phải tạo điều kiện để các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp luật, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những sơ hở trong cơ chế, chính sách tạo cơ hội phát sinh tham nhũng; xử lý nghiêm hành vi hối lộ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong việc tham gia đấu thầu, đấu giá; xử lý nghiêm hành vi gian lận thương mại; công bố công khai danh tính các cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm...
Vai trò của doanh nghiệp trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã quy định riêng một chương về vai trò của xã hội trong Phòng, chống tham nhũng, trong đó có vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 có 3 nhóm biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng: biện pháp phát hiện qua việc tự kiểm tra; qua thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán; thông tin tố cáo về tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tiếp tục kế thừa và phát triển các quy định này, gồm có 3 nhóm biện pháp sau:
Đối với cộng đồng doanh nghiệp nói chung có trách nhiệm phát hiện và xử lý tham nhũng, chủ yếu tập trung vào thực hiện hai biện pháp là tự kiểm tra để phát hiện và xử lý tham nhũng theo thẩm quyền và giải quyết tố cáo tham nhũng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xử lý tham nhũng trong chính các doanh nghiệp của mình.
Về phát hiện qua tự kiểm tra, Chương III Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Điều 60 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định rằng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm chủ động tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên, trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân và cán bộ, công chức, viên chức khác do mình quản lý nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng; Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc người đứng đầu đơn vị trực thuộc kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý; Khi phát hiện hành vi tham nhũng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Về phát hiện và xử lý tố cáo tham nhũng, mục 3 Chương III Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và mục 3 Chương III Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng, bảo vệ người phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng và khen thưởng người tố cáo.
Về việc xử lý các thông tin tố cáo tham nhũng hiện nay, được thực hiện dựa trên quy định của Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 và Nghị định số 31/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo.
Biện pháp thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử là những biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các biện pháp xử lý kỷ luật, các biện pháp hành chính, các biện pháp thu hồi trong phạm vi thẩm quyền của mình. Đối với các vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì thẩm quyền thuộc về các cơ quan tố tụng tiến hành xử lý. Nguyên tắc chung trong xử lý tham nhũng là xử lý đối với hành vi tham nhũng và xử lý tài sản tham nhũng. Xử lý hành vi tham nhũng dựa trên những biện pháp phòng ngừa và xử lý tham nhũng.
II. Thực trạng vai trò của doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian qua
Để phòng, chống tham nhũng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, trước hết cần xác định được hình thức tham nhũng phổ biến đang diễn ra. Nhìn chung, hình thức tham nhũng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp rất đa dạng, tính chất ngày càng tinh vi. Tuy nhiên, với quan điểm của Việt Nam hiện nay là tập trung phòng, chống tham nhũng trong khu vực công thì hình thức tham nhũng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào hai hình thức phổ biến sau:
Thứ nhất, một số doanh nghiệp “bắt tay” với người có thẩm quyền các cơ quan quyền lực nhà nước để giành được lợi thế cạnh tranh không lành mạnh mà bản chất ẩn chứa sau đó là lợi ích cá nhân. Mối quan hệ này đã hình thành các doanh nghiệp “sân sau” nhằm chiếm đoạt tiền, tài sản của nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân khác. Các doanh nghiệp liên quan đến tham nhũng trong trường hợp này có thể là doanh nghiệp có phần vốn góp của nhà nước, cũng có thể là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, tham nhũng diễn ra ngay trong doanh nghiệp nhà nước, nơi quản lý vốn, tài sản và con người của nhà nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình đó cũng ẩn chứa nguy cơ tham nhũng với tính chất tinh vi, phức tạp. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã chỉ rõ nguy cơ này: “Trong những năm tới, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước … sẽ nảy sinh những điều kiện mới cho tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp. Mặt khác, việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng tạo cơ hội phát sinh những vụ việc tham nhũng với phạm vi rộng hơn, khó phát hiện và xử lý hơn do có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài”. DNNN được giao quản lý, sử dụng và khai thác một nguồn lực rất lớn về vốn, tài nguyên thiên nhiên và lao động. Vì vậy, đây chính là khu vực cần tập trung mạnh mẽ trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng.
Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, có nhiều loại hình doanh nghiệp nhà nước như: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; doanh nghiệp nhà nước độc lập và doanh nghiệp thành viên và Tổng công ty Nhà nước; doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị... Đến Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, doanh nghiệp nhà nước không chỉ có doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước mà gồm cả doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần hay có phần góp vốn chi phối. Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng xác định “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”[1]. Cùng với quan niệm về doanh nghiệp nhà nước như trên, trong giai đoạn này, pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng xác định chủ thể tham nhũng bao gồm cả “Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp”[2]. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định 06 nhóm biện pháp phòng ngừa, 03 nhóm biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng được áp dụng chung cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị (trong đó có các doanh nghiệp nhà nước). Đồng thời, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 còn có một số quy định riêng về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp nhà nước, ví dụ như quy định về công khai, minh bạch trong quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước[3], quy định về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp nhà nước[4]… Có thể thấy, trong giai đoạn này việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp nhà nước không có nhiều đặc thù so với các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước giai đoạn này cũng gặp phải một số hạn chế, bất cập. Các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng đã được áp dụng, tuy nhiên còn hình thức, chưa thật đầy đủ. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của các doanh nghiệp hiện còn khác nhau. Thậm chí, một số doanh nghiệp nhà nước còn vi phạm quy định về những điều cấm. Bên cạnh đó, nội dung quy định về một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng rất khó thực hiện đối với doanh nghiệp nhà nước. Trong một số Tập đoàn, Tổng công ty, do địa bàn hoạt động và các đơn vị trực thuộc nằm rải rác trong phạm vi cả nước nên khó khăn trong việc kê khai, công khai bản kê khai tài sản, thu nhập và trả lương qua tài khoản theo quy định[5]. Việc chuyển đổi vị trí công tác ở một số đơn vị chưa triệt để. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra không ổn định[6].
Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”[7]. Đây là điểm khác so với Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp nhà nước bị thu hẹp lại rất nhiều so với trước đây. Nếu hiểu đơn thuần như quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì các doanh nghiệp dưới 100% vốn nhà nước không phải là doanh nghiệp nhà nước vì vậy nhiều biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng sẽ không được áp dụng.
Bên cạnh đó, một số quy định trong các luật khác có liên quan cũng gặp vướng mắc trong quá trình áp dụng đối với doanh nghiệp có phần vốn của Nhà nước. Ví dụ, theo Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, Thanh tra Bộ có thẩm quyền thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập, Thanh tra tỉnh có thẩm quyền thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập[8]. Như vậy, quy định doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đã tạo ra khoảng trống trong việc thanh tra đối với các doanh nghiệp mà phần vốn góp nhà nước chi phối nhưng dưới 100% vốn điều lệ, ảnh hưởng đến hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước, Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra đã đề xuất: “Có hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước và phân định rõ phạm vi thanh tra của Thanh tra bộ với Thanh tra tỉnh, Thanh tra tỉnh với Thanh tra sở khi tiến hành thanh tra doanh nghiệp nhà nước theo phạm vi quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp. Đồng thời, chỉnh sửa cụm từ doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”[9].
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước và giải thích: Cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội. Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp quy định trên đây[10]. Với quy định trên đây, các doanh nghiệp trong đó có phần vốn góp của Nhà nước ở những quy mô vốn góp khác nhau thì khi nào được gọi là tổ chức khu vực nhà nước hay doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước cũng là vấn đề đặt ra.
Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có riêng một chương (Chương VI) về phòng, chống tham nhũng trong tổ chức, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước. Việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước được thực hiện đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, doanh nghiệp nhà nước được giao quản lý, sử dụng nguồn vốn, tài sản rất lớn của Nhà nước. Đa số các vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lớn xảy ra trong thời gian qua bị cơ quan chức năng xử lý và được dư luận quan tâm đều liên quan đến doanh nghiệp nhà nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 12-NQ/TW Ngày 03/6/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: “Thể chế quản lý, quản trị còn doanh nghiệp nhà nước dhông ít hạn chế, yếu kém, tạo kẽ hở để hình thành “nhóm lợi ích”, thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, lãng phí”. Như vậy, việc xác định trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng là vấn đề rất quan trọng.
Có thể thấy, nổi bật nhất là vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Vai trò của cộng đồng doanh nghiệp chỉ được phát huy trong khuôn khổ của Nghị định 47/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Vai trò của công ty đại chúng, tổ chức tín dụng được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thời gian thực hiện trong thực tiễn còn mới, vì vậy chưa có đánh giá nào cụ thể cho vấn đề này.
3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng
Từ việc rà soát các quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng và thực tiễn triển khai công tác phòng, chống tham nhũng của một số Tập đoàn, Tổng Công ty, doanh nghiệp nhà nước trong thời gian gần đây cho thấy có một số vấn đề đặt ra đối với việc doanh nghiêp phát hiện và xử lý tham nhũng như sau:
Một là, pháp luật quy định về vai trò của doanh nghiệp ngoài nhà nước trong các biện pháp phát hiện, phòng ngừa và xử lý tham nhũng như vậy. Tuy nhiên, chưa có cơ chế để xác định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện không đúng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng theo quy định của pháp luật. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP có đề cập đến vấn đề thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện biện pháp này. Tuy nhiên, khi phát hiện ra sai phạm, cơ chế xử lý trách nhiệm trong Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định vẫn chưa rõ ràng.
Hai là, khái niệm về doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định về doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp sở hữu 100% vốn nhà nước. Luật doanh nghiệp 2020 mới chính thức có hiệu lực từ 01/01/2021 lại quy định trở lại giống Luật Doanh nghiệp năm 2005. Vậy việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa xử lý tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước được hiểu với những mức độ như thế nào. Đối với doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn nhà nước sẽ thực hiện trách nhiệm như cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước nói chung. Còn đối với doanh nghiệp cổ phần có vốn góp của Nhà nước chi phối thì không thể thực hiện toàn bộ các biện pháp phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Bởi lẽ, điều này liên quan đến tính cạnh tranh minh bạch, bình đẳng và liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông khác trong đó, khi mà các cổ đông khác “không thuộc về nhà nước”.
Ba là, trong việc thực hiện các biện pháp phát hiện và xử lý tham nhũng. Khi xảy ra các vụ việc tham nhũng trong các doanh nghiệp đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xử lý đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về hình sự. Đối với một số nhóm hành vi xảy ra trong doanh nghiệp, không phải là doanh nghiệp nhà nước mà chỉ là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng chỉ xác định 3 hành vi tham nhũng là tham ô, nhận lối lộ, đưa và môi giới hối lộ. Khi phát hiện các hành vi vi phạm này mà chưa đến mức xử lý trách nhiệm hình sự thì hiện nay chưa có cơ chế để xử lý đối với các hành vi này trong nội bộ doanh nghiệp. Pháp luật chưa quy định biện pháp xử phạt hành chính hay xử lý kỷ luật với những hành vi này.Trước yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng và thực hiện chủ trương cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả, tăng cường vai trò và trách nhiệm doanh nghiệp nhà nước, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, về nhận thức. Hiện nay, các loại hình doanh nghiệp có phần vốn của Nhà nước và quy mô, lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức rất đa dạng. Để có cơ sở xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trước hết, cần có quan niệm thống nhất về doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết số 12-NQ/TW Ngày 03/6/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và xác định: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”. Quan điểm này cần được thể chế trong pháp luật về doanh nghiệp, từ đó có cơ sở để hoàn thiện quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là thiết cập cơ chế kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và giám sát đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Thứ hai, để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối, cần có chế định riêng và hướng dẫn chi tiết việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũngtrong các doanh nghiệp nhà nước, trong đó tập trung vào trách nhiệm của của từng chủ thể có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp nhà nước gắn với các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng cụ thể. Chế định riêng về phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng không thống nhất trong các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua.
Với các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ cần quy định bắt buộc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tương tự như công ty đại chính, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong phòng, chống tham nhũng. Mặc dù năm 2012 đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng và sau đó các cơ quan chức năng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Tuy thời gian thực hiện chưa lâu cũng đã bộc lộ một số điểm bất cập trong thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ như việc thực hiện công khai bản kê khai đối với doanh nghiệp nhiều người phải kê khai có trách nhiệm công khai trước cuộc họp với sự có mặt của ít nhất 70% người được triệu tập. Một số doanh nghiệp, số lượng người phải công khai bản kê khai lên đến vài chục người, như vậy, yêu cầu công khai đầy đủ nội dung của bản kê khai sẽ khó bảo đảm được thực chất. Bên cạnh đó, với vai trò đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, cần thiết có quy định riêng về chế tài đối với doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng.
Cần hoàn thiện quy định vấn đề thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện biện pháp phát hiện, phòng ngừa và xử lý tham nhũng tại Nghị định số 59/2019/NĐ-CP để xác định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đúng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về kiểm soát từ bên ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước nhằm vừa bảo đảm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong doanh nghiệp nhà nước đồng thời cũng là biện pháp thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của các chủ thể trong doanh nghiệp nhà nước. Để góp phần kiểm soát từ bên ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước hết, cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán và việc chịu trách nhiệm về kết quả thanh tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp nhà nước. Thanh tra Chính phủ và các bộ chủ quản cần tăng cường thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước để kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập, tìm ra giải pháp khắc phục và phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng.
Thứ năm, có rất nhiều quy định pháp luật về trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng nằm trong các văn bản khác nhau. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước, bên cạnh việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nội bộ thì các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các Tập đoàn, Tổng Công ty cần xây dựng cẩm nang về phòng, chống tham nhũng trong đơn vị mình để hướng dẫn áp dụng thống nhất đến các đơn vị cơ sở trực thuộc, tránh tình trạng các doanh nghiệp nhà nước ban hành nhiều hướng dẫn bằng nhiều văn bản khác nhau, làm cho cơ sở khó thực hiện.
Thứ sáu, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm các báo cáo toàn diện, đầy đủ. Các báo cáo phải phản ánh đúng đắn thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng của các doanh nghiệp, tránh việc báo cáo hình thức, chung chung.
Thứ bảy, giải thích rõ mức độ thực hiện các biện pháp phòng ngừa trong việc thực hiện phòng, chống tham nhũng trong từng loại hình doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhà nước. Mức độ thanh tra, kiểm tra trong doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn góp Nhà nước chi phối cũng khác nhau. Theo đó, cơ chế xử lý trách nhiệm kỷ luật đối với người trong doanh nghiệp nhà nước thì xử lý bằng hình thức kỷ luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Tuy nhiên, với người trong doanh nghiệp cổ phần mà vốn nhà nước chi phối thì cơ chế xử lý trách nhiệm thì không chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp nhà nước mà có thể có những chức danh trong doanh nghiệp được thuê thực hiện quyền và nghĩa vụ của người lao động. Vì vậy, việc xử lý kỷ luật sẽ do hội đồng quản trị thực hiện. Các cơ quan đại diện chủ sở hữu, có chăng chỉ được xem xét kỷ luật đối với những người đại diện phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc những người do mình bổ nhiệm.
Kết luận
Quan niệm về doanh nghiệp và việc xác lập địa vị pháp lý, mô hình tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của các doanh nghiệp trong thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Thực tiễn thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng thời gian qua cho thấy sự cần thiết của việc nhận thức thống nhất về doanh nghiệp nhà nước, từ đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến vai trò và việc thực hiện phòng, chống tham nhũng của doanh nghiệp.
Theo nguồn: Viện Chiến lược và Khoa học Thanh tra
[1] Khoản 22 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005;
[2] Khoản 3 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005;
[3] Điều 18, Điều 19 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012);
[4] Theo Nghị định số 78/2013/NĐ-CP và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP;
[5] Xem Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng số 263b/BC-GVN.HN ngày 02/12/2015 của Tổng Công ty Giấy Việt Nam;
[6] Xem Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng số 1405/TĐDMVN-QLNNL ngày 07/12/2015 của Tập đoàn Dệt May Việt Nam;
[7] Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
[8] Xem Khoản 2 Điều 15, Khoản 2 Điều 18 và Khoản 2 Điều 21 Luật Thanh tra năm 2010;
[9] Thanh tra Chính phủ (2017): Báo Cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra;
[10] Khoản 9, Khoản 10 Điều 3 Luật PCTN năm 2018;
Liên kết website
Các Trang khác
Thống kê truy cập
Lượt xem: 7567241