Những yếu tố bảo đảm nhằm phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra

06/06/2025    Lượt xem: 157    In bài viết   Độ tương phản  

Rủi ro trong hoạt động thanh tra - nếu không được phòng ngừa, xử lý tốt thì có nguy cơ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra và không đạt được mục đích thanh tra. Để phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra, đòi hỏi phải đảm bảo nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; trong đó có một số yếu tố cơ bản sau:

1. Yếu tố lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát để kịp thời nhận diện, phòng ngừa, xử lý rủi ro là nền tảng cho cách thức tổ chức quản lý ở bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, trong đó có cơ quan thanh tra. Trước hết, đó là nhận diện được rủi ro trong mỗi giai đoạn hoạt động thanh tra nhằm xác định những bất trắc có khả năng xảy ra, từ đó phát triển thông tin về nguồn rủi ro, nguy cơ hậu quả xảy ra. Ví dụ, trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra, có nguy cơ rủi ro bỏ lọt đối tượng dự kiến thanh tra; rủi ro năng lực, chuyên môn của thành viên Đoàn thanh tra không phù hợp với yêu cầu, tính chất, nội dung thanh tra; rủi ro kế hoạch tiến hành thanh tra được xây dựng “quá tải” so với thời hạn thanh tra, nguồn lực của Đoàn thanh tra dẫn đến đặt vấn đề kiểm tra thì nhiều nhưng không thực hiện được hết và phải giải trình khi không thực hiện đúng kế hoạch tiến hành thanh tra; rủi ro mất dấu vết thông tin, tài liệu, chứng cứ khi đối tượng thanh tra có thể tiên lượng trước nội dung thanh tra và có động thái đối phó, che đậy thông tin, xóa dấu vết ngay từ bước thu thập thông tin để chuẩn bị thanh tra, trước khi Đoàn thanh tra vào trực tiếp… Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, có nguy cơ rủi ro vì xung đột lợi ích trong hoạt động thanh tra; rủi ro không hợp tác, cản trở, chống đối, gây khó khăn của đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; rủi ro bỏ lọt, bỏ sót, bỏ qua hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra; rủi ro lộ thông tin nội bộ/bí mật trong quá trình thanh tra… Trong giai đoạn kết thúc cuộc thanh tra, có nguy cơ rủi ro chậm tiến độ; rủi ro bị khiếu nại, tố cáo hoặc bị khởi kiện yêu cầu bồi thường nhà nước…

Từ nhận diện rủi ro, việc phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra phải trên cơ sở thực hiện tốt công tác chính trị - tư tưởng về trách nhiệm “tròn vai thuộc bài” trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra theo quy định pháp luật như: (i) Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan thanh tra và các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý của mình trong công tác thanh tra; giải quyết khó khăn, vướng mắc, xử lý kịp thời kiến nghị về thanh tra và chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật. (ii) Trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra trong ban hành quyết định thanh tra; trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu và báo cáo, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra; quyết định việc trưng cầu giám định về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; quyết định hoặc yêu cầu người có thẩm quyền quyết định tạm giữ tài sản, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị sử dụng trái pháp luật; đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ hành vi vi phạm; yêu cầu tổ chức tín dụng phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra; đề nghị cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp để ngăn chặn kịp thời đối tượng thanh tra có hành vi hủy hoại, tẩu tán tài sản hoặc để bảo đảm thực hiện quyết định thu hồi tài sản; quyết định kiểm kê tài sản; quyết định thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái pháp luật hoặc bị thất thoát; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, chuyển công tác, cho thôi việc, cho nghỉ hưu đối với đối tượng thanh tra hoặc người cung cấp thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra nếu có căn cứ cho rằng việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho hoạt động thanh tra; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức cố ý cản trở hoạt động thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra; quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý kết quả thanh tra; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý về thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra; đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra; ban hành kết luận thanh tra; chuyển hồ sơ vụ việc, tài liệu có liên quan cùng với văn bản kiến nghị khởi tố sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm theo quy định pháp luật; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền... Trong các giai đoạn của hoạt động thanh tra, người ra quyết định thanh tra chịu mọi trách nhiệm liên quan đến hạn chế, giảm thiểu sự tác động của rủi ro từ khi xây dựng kế hoạch đến khi kết thúc cuộc thanh tra. (iii) Trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra trong tổ chức, chỉ đạo trực tiếp các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung, tiến độ thanh tra theo quyết định thanh tra và kế hoạch tiến hành thanh tra; kiến nghị người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật để bảo đảm thực hiện yêu cầu, mục đích thanh tra. Cuộc thanh tra nếu diễn biến phức tạp, có thể nảy sinh những vấn đề mới chưa dự liệu được thì phương pháp chỉ đạo của Trưởng đoàn không cứng nhắc mà phải biết bám sát thực tế, xử lý tình huống linh hoạt, điều chỉnh kịp thời, chính xác, tránh rủi ro. Trong thực hiện nhiệm vụ, không phải lúc nào thành viên Đoàn thanh tra cũng thông suốt về tư tưởng, về thực hiện nhiệm vụ phân công, khi đó Trưởng đoàn cần có biện pháp phù hợp như nắm bắt tâm tư thành viên Đoàn thanh tra như thế nào, động viên, khuyến khích; nếu không có chuyển biến thì phải thực hiện nghiêm Quy chế tổ chức và hoạt động Đoàn thanh tra, ngăn chặn sớm nguy cơ rủi ro có thể xảy ra. (iv) Trách nhiệm của thành viên Đoàn thanh tra trong thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng đoàn thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu và báo cáo, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu về nội dung thanh tra; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao; báo cáo Trưởng đoàn thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm trước Trưởng đoàn thanh tra và trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo... Có trách nhiệm đề phòng rủi ro trong hoạt động thanh tra; trong đó, tập trung vào trách nhiệm đề phòng rủi ro khi tiến hành thu thập thông tin, tài liệu, tiếp cận (làm việc) với đối tượng thanh tra.

Bên cạnh đó, đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cũng cần có nhận thức đúng, thông suốt về cuộc thanh tra. Họ cũng là đối tượng của công tác chính trị - tư tưởng. Hoạt động công bố quyết định thanh tra phải làm cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đó hiểu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra. Để có được thái độ hợp tác tích cực, xây dựng giữa các bên trong hoạt động thanh tra, trước hết, đòi hỏi người tiến hành thanh tra phải có quan điểm, thái độ đúng mực, kiên nhẫn lắng nghe, phương pháp làm việc khoa học, không vòi vĩnh, không nhũng nhiễu, không vụ lợi, không tạo áp lực vô lý lên đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Việc tiến hành thanh tra phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định; việc sử dụng quyền hạn phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật ràng buộc và phải chú ý tính đến hậu quả không mong muốn phát sinh từ việc sử dụng quyền hạn có tính cưỡng chế mạnh trong quá trình thanh tra của Trưởng đoàn thanh tra, của người ra quyết định thanh tra. Ngoài ra, các phương pháp tâm lý, tư tưởng, thuyết phục, dân chủ, lắng nghe, tôn trọng quyền giải trình của đối tượng thanh tra trong quá trình tiến hành thanh tra cũng giúp cải thiện rất nhiều thái độ ứng xử giữa các bên trong hoạt động thanh tra.

2. Yếu tố thể chế

Trong hoạt động thanh tra, phòng ngừa, xử lý rủi ro bằng công cụ pháp lý rất quan trọng. Pháp luật thường tồn tại hai mặt - vừa là căn cứ pháp lý để thực hiện phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra - vừa có thể là rủi ro pháp lý khi pháp luật điều chỉnh chưa hoàn thiện, còn tồn tại, vướng mắc, có khoảng trống, phát sinh kẽ hở gây ra rủi ro. Theo đó, ngăn ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra đòi hỏi phải có quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khá toàn diện về pháp luật thanh tra.

Thứ nhất, về lâu dài, nghiên cứu, bổ sung điều khoản quy định trực tiếp trong pháp luật thanh tra về trách nhiệm phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra. Mặc dù các quy định gián tiếp về vấn đề này thì khá nhiều, bao trùm các góc cạnh pháp lý điều chỉnh về hoạt động thanh tra nhưng vẫn thiếu quy phạm điều chỉnh trực tiếp. Rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tiến hành một cuộc thanh tra như xảy ra sự kiện vượt khỏi tầm kiểm soát của người tiến hành thanh tra (thiên tai địch họa, dịch bệnh; đối tượng thanh tra là cá nhân đã chết; cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền và nghĩa vụ…). Đối với các sự kiện này, pháp luật đã dự liệu xử lý bằng việc tạm dừng hay đình chỉ cuộc thanh tra, điều này bảo đảm không làm ảnh hưởng đến thời hạn thanh tra trực tiếp. Để hạn chế khả năng rủi ro xảy ra trong giai đoạn thực hiện hoạt động thanh tra như rủi ro chồng chéo trong hoạt động thanh tra; rủi ro khi đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không hợp tác hoặc cản trở, chống đối, gây khó khăn cho hoạt động thanh tra, rủi ro vì xung đột lợi ích, rủi ro khi kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra bị khiếu nại, tố cáo hoặc bị khởi kiện yêu cầu bồi thường nhà nước… pháp luật phải dự liệu và đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế nguy cơ rủi ro bằng các biện pháp bảo đảm thực hiện như xây dựng kế hoạch thanh tra, chế tài, giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra… Có những rủi ro có thể phát sinh trên thực tế nhưng pháp luật chưa có các quy phạm điều chỉnh cụ thể và để quy định chặt chẽ hơn, một số trường hợp được điều chỉnh bằng dạng văn bản quy chế nhằm xác định nguyên tắc, trách nhiệm, quyền hạn, chế độ, lề lối làm việc áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong một tổ chức nhất định. Ví dụ, Quy chế tổ chức và hoạt động Đoàn thanh tra có những quy định về các hành vi bị cấm như đề xuất, tham mưu, quyết định cử người không đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia Đoàn thanh tra; tự ý tiếp xúc với đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến nội dung thanh tra khi chưa được giao nhiệm vụ; nhận tiền, quà, tài sản; tổ chức, tham gia giao lưu, ăn uống với đối tượng thanh tra dưới mọi hình thức... Bên cạnh đó, rủi ro không chỉ liên quan tới chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của nhiều chủ thể (cơ quan và Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; cơ quan và Thủ trưởng cơ quan thanh tra; cán bộ, công chức tham gia hoạt động thanh tra; đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan) mà còn liên quan đến trình tự, thủ tục, quy trình nghiệp vụ thanh tra; xử lý sai phạm trong quá trình thanh tra; vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra; cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan chức năng khác… Theo đó, phòng ngừa, xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện từ góc độ pháp lý.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người tiến hành thanh tra, đối tượng thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra. Pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn đối với người tiến hành thanh tra - chủ yếu là các quyền như quyền yêu cầu, quyền quyết định, quyền kiến nghị mà ít có các nghĩa vụ tương ứng. Để bảo đảm pháp lý nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra đối với nhóm các sự kiện rủi ro do người tiến hành thanh tra có thể gặp phải, cần có cơ chế đầy đủ để kiểm soát hay bảo đảm việc thực hiện các quyền này được đúng đắn, khách quan. Bên cạnh đó, cũng nghiên cứu hoàn thiện cơ chế thúc đẩy việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra và tổ chức, cá nhân có liên quan với những dẫn cụ thể để hiểu, áp dụng quyền một cách thống nhất và các điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ trong từng trường hợp, tránh việc hiểu không đúng và thực hiện không đúng. Đây là cơ sở giúp bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra được thực hiện đúng, đầy đủ; qua đó thúc đẩy việc thực hiện các quyền của người tiến hành thanh tra được đúng đắn, khách quan, góp phần phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh tra.

Việc quy định đầy đủ trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra là cơ sở để người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đúng, đẩy đủ nhất các quyền và nghĩa vụ của mình. Hiện nay, Luật Thanh tra năm 2022, Nghị định số 43/2023/NĐ-CP và Thông tư số 08/2024/TT-TTCP ngày 18 tháng 12 năm 2024 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện quy định về trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra (thay thế Thông tư số 06/2021/TT-TTCP) đã có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra; Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc áp dụng, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chi tiết hơn, đầy đủ hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn về việc thành lập Đoàn thanh tra; các bước tiến hành cuộc thanh tra; việc thực hiện từng quyền cụ thể trong hoạt động thanh tra; mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền của người tiến hành thanh tra và việc thực hiện nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; việc thực quyền của đối tượng thanh tra với các bảo đảm tương ứng từ phía người tiến hành thanh tra và các chủ thể có liên quan…

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm soát hoạt động của Đoàn thanh tra. Hiện nay, pháp luật thanh tra đã có những quy định khá cụ thể về vấn đề này như cơ chế giám sát của người ra quyết định thanh tra - tự mình hoặc thông qua người/tổ giám sát; cơ chế giám sát thông qua các kế hoạch, giao nhiệm vụ và báo cáo kết quả làm việc của các thành viên Đoàn thanh tra với người ra quyết định thanh tra… Thông tư số 08/2024/TT-TTCP mới được ban hành cơ bản đã giải quyết một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thời gian qua. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật với các quy định chặt chẽ hơn trên cơ sở sơ kết/tổng kết những tồn tại, vướng mắc đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra vẫn phải được xác định là nhiệm vụ quan trọng.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu để xây dựng và thực hiện Bộ chuẩn mực trong hoạt động thanh tra. Việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra; về việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra; về kiểm soát hoạt động của người tiến hành thanh tra; về phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động thanh tra… cần thiết phải có các quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết áp dụng pháp luật trong từng trường hợp có ý nghĩa quan trọng. Tiếp cận kinh nghiệm của các ngành có liên quan, thì đây chính là việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực trong hoạt động thanh tra. Bộ chuẩn mực bao gồm nhiều chuẩn mực, được xây dựng mở, từ chuẩn mực lựa chọn thành viên tham gia Đoàn thanh tra; chuẩn mực xử lý các tình huống phát sinh; chuẩn mực thực hiện quyền trong những trường hợp cụ thể… Các chuẩn mực thanh tra bao gồm chuẩn mực nghiệp vụ và chuẩn mực đạo đức, nhất là hướng dẫn việc ứng xử của người tiến hành thanh tra trong từng trường hợp cụ thể (ví dụ khi phát sinh tình huống xung đột lợi ích, khi có các tình huống rủi ro pháp lý trong quá trình tiến hành thanh tra…). Việc có quy định chuẩn mực sẽ hướng dẫn chi tiết người tiến hành thanh tra phải xử lý như thế nào, qua đó tránh được các rủi ro trong quá trình thực hiện, tránh áp dụng pháp luật một cách chủ quan.

Thứ năm, nghiên cứu xây dựng Bộ tiêu chí thu thập và phân tích, khai thác thông tin quản lý rủi ro đầu vào trong hoạt động thanh tra. Bộ tiêu chí thu thập và phân tích, khai thác thông tin quản lý rủi ro đầu vào trong hoạt động thanh tra quy định tính chất, dấu hiệu để thu thập, xử lý, phân tích, khai thác, lựa chọn thông tin và phân tích rủi ro liên quan tới đối tượng thanh tra nhằm tìm ra những đối tượng có nguy cơ cao đưa vào kế hoạch thanh tra. Đồng thời, pháp luật thanh tra cũng cần hoàn thiện theo hướng bổ sung nguyên tắc quy định về việc lựa chọn đối tượng, phạm vi và thời gian thanh tra theo quản lý rủi ro. Mặc dù Luật Thanh tra năm 2022 đã có nhiều quy định tương đối chặt chẽ về thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục giúp hoạt động thanh tra trở nên minh bạch, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đối tượng thanh tra; tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng tùy tiện trong lựa chọn đối tượng, nội dung, phạm vi, thời kỳ thanh tra.

Hiện nay, một số cơ quan nhà nước đã áp dụng phương thức quản lý rủi ro trong thanh tra như lĩnh vực thuế, hải quan... Phương pháp này sẽ chấm điểm rủi ro của các doanh nghiệp, hồ sơ, lô hàng giúp các cơ quan nhà nước quyết định việc lựa chọn đối tượng, nội dung, phạm vi thanh tra có mức độ rủi ro vi phạm pháp luật cao nhất. Thực tiễn triển khai trong lĩnh vực thuế và hải quan đã cho thấy, phương pháp này mang lại nhiều tác dụng tích cực như giảm thời gian, nhân lực cho lực lượng thanh tra, kiểm tra; tăng hiệu quả hoạt động thanh tra do hướng đến đúng đối tượng có rủi ro cao; giảm nguy cơ tham nhũng, tiêu cực và sự chủ quan khi lựa chọn đối tượng, nội dung, phạm vi, thời kỳ thanh tra. Theo đó, cần nghiên cứu lập cơ sở dữ liệu về các đối tượng thuộc phạm vi quản lý. Cơ sở dữ liệu bao gồm nhiều tiêu chí nhằm chấm điểm rủi ro nguy cơ vi phạm pháp luật của các đối tượng thuộc phạm vi quản lý. Các cơ quan lập công thức chấm điểm rủi ro dựa trên các tiêu chí trong dữ liệu. Thực hiện lựa chọn đối tượng thanh tra định kỳ theo điểm rủi ro của từng đối tượng.

Đặc biệt, cần ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện việc kết nối, tiếp nhận thông tin từ các nguồn dữ liệu liên quan trong và ngoài cơ quan thanh tra, điện tử hoá các biện pháp, kỹ thuật quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu như: (i) Tiền xử lý và phân tích, khai thác dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra; (ii) thực hiện các phương pháp phân loại, phân đoạn đối tượng quản lý phục vụ quản lý rủi ro đầu vào; (iii) thực hiện phân loại mức độ rủi ro của đối tượng quản lý; (iv) thực hiện phân tích, xây dựng tiêu chí, chỉ số rủi ro căn cứ trên dữ liệu, thông tin từ cơ sở dữ liệu thanh tra, dữ liệu khiếu nại, tố cáo; (v) áp dụng các phương pháp công nghệ, trí tuệ nhân tạo vào quá trình thống kê, phân tích dữ liệu quản lý rủi ro đầu vào. Bên cạnh đó, thông tin quản lý rủi ro đầu vào cũng cần chú trọng thông tin về đối tượng thanh tra đã có kết luận thanh tra, kiểm toán chưa, nội dung kết luận thanh tra, kiểm toán như thế nào và việc thực hiện kết luận ra sao… để khử trùng đối tượng thanh tra ngay từ khâu xây dựng kế hoạch thanh tra.

3. Yếu tố tổ chức thực hiện, con người

- Về yếu tố tổ chức thực hiện: Nghiên cứu xây dựng Quy trình quản trị rủi ro nội bộ. Quy trình quản trị rủi ro nội bộ tách biệt với quy trình thanh tra thông thường và chú trọng công tác hậu kiểm. Quản trị rủi ro là một quá trình phức tạp và đòi hỏi sự hợp tác của nhiều bên liên quan trong tổ chức. Phương pháp tiếp cận xây dựng Quy trình có thể tham khảo nguyên tắc và hình thức quản trị rủi ro một cách minh bạch, hệ thống và đáng tin cậy trong bất kỳ phạm vi hoặc môi trường hoạt động của tổ chức theo Tiêu chuẩn ISO 31000:2011[1]. Nếu quy trình thanh tra giúp Đoàn thanh tra tác nghiệp, thực hiện các nhiệm vụ trongtừng giai đoạn của cuộc thanh tra thì quy trình quản trị rủi ro nội bộ là nhằm hướng đến việc dự báo rủi ro và hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh tra:

(i) Xác định rủi ro: Là việc nhận diện các loại rủi ro mà hoạt động thanh tra phải đối mặt. Cần ghi rõ tại quy trình các khuyến nghị, khuyến cáo các rủi ro có thể phát sinh khi tiến hành hoạt động thanh tra.

(ii) Đánh giá và xếp hạng rủi ro: Khi xác định mục đích hoạt động thanh tra đã đạt được thì có thể chấp nhận phát sinh rủi ro không cần thiết. Vì nguồn lực để triển khai hoạt động thanh tra là có hạn, trong khi số lượng các rủi ro là rất lớn. Nên, sau khi xác định được rủi ro thì cần đánh giá, xếp hạng theo mục đích ưu tiên ứng phó để đảm bảo khi hoạt động thanh tra được tiến hành, nếu phát sinh rủi ro thì có thuộc rủi ro chấp nhận được, rủi ro này có phải ngay lập tức khắc phục để tránh dẫn đến các rủi ro khác hay không... Có thể đặt ra 03 tiêu chí đánh giá: Khả năng xảy ra rủi ro; mức độ tác động của rủi ro đến rủi ro khác (mức độ nguyên nhân cho rủi ro khác xảy ra) ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra; mức độ gây thiệt hại.

(iii) Xây dựng kế hoạch ứng phó: Quá trình hoạt động thanh tra, cần vận dụng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát cụ thể để ứng phó với các rủi ro dự kiến. Quan trọng là các biện pháp này cần hữu hiệu và ít tốn kém (đưa ra các giải pháp hiệu quả về thời gian ứng phó, nguồn lực ứng phó, người chịu trách nhiệm triển khai, ứng phó ngay khi rủi ro dự kiến xảy ra).

(iv) Tổ chức giám sát và thực hiện các biện pháp: Giao trách nhiệm giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra cho người/tổ giám sát; trong đó có nội dung phát hiện rủi ro và phản ứng (tham mưu đề xuất biện pháp xử lý với người có thẩm quyền) với các tình huống rủi ro đó. Quy trình rủi ro nội bộ được ban hành dưới dạng Quyết định, hướng dẫn cách thức nhận diện, đánh giá, giải quyết các rủi ro ảnh hưởng đến định hướng mục đích và các kết quả dự kiến trong hệ thống quản lý chất lượng của cơ quan thanh tra.

- Về yếu tố con người: Phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành thanh tra là các tiêu chuẩn quan trọng để phòng ngừa nguồn rủi ro chủ quan. Thanh tra có vị trí đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nước, trong hoạt động đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động thanh tra liên quan trực tiếp đến những con người cụ thể ở các vị trí khác nhau như: Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra… Người tiến hành thanh tra phải có bản lĩnh chính trị, có năng lực chuyên môn tốt, dũng cảm, dám đương đầu với cái sai. Theo đó, căn cứ tình hình thực tế việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, người ra quyết định thanh tra lựa chọn cán bộ phù hợp làm Trưởng đoàn thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức điều hành chung, có tầm nhìn bao quát với kế hoạch chung của cuộc thanh tra để cuộc thanh tra đạt hiệu quả cao nhất. Với vai trò, trách nhiệm như vậy đòi hỏi Trưởng đoàn thanh tra phải có năng lực, kinh nghiệm, nắm bắt nội dung trọng tâm để chỉ đạo, điều hành các thành viên trong Đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ được phân công đạt hiệu quả, chất lượng.

Thực tế cho thấy, không phải cuộc thanh tra nào cũng được diễn ra thuận lợi và đạt kết quả tốt từ khi triển khai thực hiện đến khi kết luận thanh tra được ban hành. Tuỳ theo nội dung, tính chất đặc thù từng cuộc thanh tra mà trong quá trình thanh tra có thể phát sinh những khó khăn, vướng mắc, phức tạp chưa dự báo trước được. Có thể kể đến những khó khăn trong việc thu thập, thẩm tra, xác minh tài liệu, chứng cứ phục vụ thanh tra; đối tượng thanh tra thiếu hợp tác… hoặc những vấn đề nảy sinh trong nội bộ Đoàn thanh tra, như: Thành viên Đoàn thanh tra không đồng ý với phân công nhiệm vụ của Trưởng đoàn, sự phối hợp giữa các thành viên trong Đoàn thanh tra không hiệu quả, quan điểm khác nhau giữa Trưởng đoàn thanh tra và thành viên Đoàn thanh tra trong việc đề xuất biện pháp xử lý sai phạm… Khi gặp các tình huống như vậy, đòi hỏi Trưởng đoàn thanh tra phải am hiểu sâu về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh vững vàng vượt qua cám dỗ, thử thách; ứng xử, giao tiếp một cách khéo léo, không được cứng nhắc mà phải tuỳ cơ ứng biến để xử lý tình huống một cách linh hoạt, có các giải pháp điều chỉnh chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, Trưởng đoàn thanh tra cần phát huy khả năng quy tụ, tập hợp đoàn kết giữa các thành viên trong Đoàn, chủ trì thực hiện việc trao đổi, thảo luận dân chủ trong nội bộ Đoàn. Đối với những khó khăn, vướng mắc, phức tạp vượt quá thẩm quyền và khả năng của Trưởng đoàn thì cần kịp thời báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra. Ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro phụ thuộc nhiều vào năng lực chỉ đạo, điều hành của Trưởng đoàn thanh tra. Do đó, mỗi cán bộ, công chức khi được giao trọng trách làm Trưởng đoàn thanh tra cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, chính trị, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo, quản lý và trau dồi thêm một số kỹ năng cần thiết khác để trong mọi tình huống, hoàn cảnh khó khăn vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Một trong những rủi ro liên quan đến yếu tố con người là việc lựa chọn nhân sự không phù hợp. Ngoài việc lựa chọn Trưởng đoàn thanh tra phù hợp, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ trì cuộc thanh tra phải đề xuất thành viên Đoàn thanh tra nhằm bảo đảm về số lượng, có năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của cuộc thanh tra. Nếu làm tốt khâu này, sẽ lựa chọn ra những thành viên đáp ứng yêu cầu cả về chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn. Ngược lại, nếu không làm tốt khâu này, không có sự giám sát chặt chẽ, có thể dẫn đến tình trạng rủi ro hình thành nhóm lợi ích ngay từ khi thành lập Đoàn thanh tra.

4. Yếu tố khác

Thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy, mỗi cuộc thanh tra với những rủi ro khác nhau đều là bài tập lớn, hoàn thành bài tập này có ý nghĩa trải nghiệm thiết thực. Kỹ năng quản trị rủi ro đa phần được tích lũy thông qua trải nghiệm thực tế tiến hành thanh tra. Chính môi trường thanh tra gợi mở cho người tiến hành thanh tra biết mình cần những kiến thức gì và cập nhật, bổ sung những kiến thức ấy như thế nào, bằng cách nào cho hiệu quả nhất, hạn chế được rủi ro nhiều nhất. Bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng nhằm cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản để nhận diện, phát hiện, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra đối với chính bản thân mình. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức, thực hiện cuộc thanh tra là nhu cầu mang tính khách quan, hỗ trợ đắc lực cho các khâu nghiệp vụ của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, khác với nhiều hoạt động quản lý nhà nước khác, yêu cầu bảo mật thông tin trong lĩnh vực hoạt động thanh tra rất quan trọng. Theo đó, bên cạnh việc tích cực, chủ động ứng dụng công nghệ số trong hoạt động thanh tra nhằm hỗ trợ lập kế hoạch thanh tra và xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, theo dõi tiến độ, nhật ký điện tử… tạo công cụ phân tích thông minh phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thì vấn đề bảo mật thông tin cũng cần được lưu ý./.

Nguồn: Viện chiến lược và khoa học thanh tra

Dấu ấn thanh tra Bình Dương
Liên kết website
Các Sở,Ban ngành

Các Trang khác

Thống kê truy cập

Lượt xem: 7774703